Sau Chiến tranh thế giới thứ hai (sau 1945) Văn_học_Thụy_Điển

Trong những thập niên đầu tiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai, trường phái hiện đại hình thành trong văn học Thụy Điển. Nhiều vấn đề cơ bản được giải quyết dưới hình thức hỗn độn và mang tính thí nghiệm, đặc biệt là trong thơ tình. Erik Lindegren, Karl Vennberg, Werner Aspenström, Elsa GraveRut Hillarp thuộc về thế hệ nhà thơ này. Đại diện cho văn xuôi ngay sau chiến tranh là Lars Ahlin, người theo một thẩm mỹ chống Trường phái Tự nhiênStig Dageman với các quyển tiểu thuyết xoay quanh đề tài về lỗi lầm và sợ hãi. Thế nhưng dòng tiểu thuyết thực tiễn vẫn tiếp tục tồn tại bên cạnh những thí nghiệm này, thí dụ như Sara Lidman miêu tả cuộc sống người nông dân tại Norrland trong quyển tiểu thuyết đầu tay của bà (Tjädalen), hay Per Anders Fogelström diễn tả cuộc sống của thành phố lớn như trong Sommaren med Monika (Những mùa hè với Monika - 1951).

Giữa thập niên 1960 là một bước ngoặt trong văn học Thụy Điển. Một ý thức chính trị thế giới mới đòi hỏi một nền văn học phê phán xã hội. Tiểu thuyết mang tính tài liệu và các bài viết không có hư cấu như các bài tường thuật hay phóng sự đạt đến đỉnh cao. Per Olov Enquist viết quyển tiểu thuyết mang tính tài kiệu Legionärerna về việc trục xuất người Balt từ Thụy Điển sang Liên bang Xô viết. Jan Myrdal đưa ra một Rapport från en kinesisk (Tường thuật từ một làng ở Trung Quốc). Các nhà văn khác như Pär WestbergSara Lidmna viết về tình trạng thế giới bên ngoài. Đầu thập niên 1970 các vấn đề chính trị trong nước cũng được cập nhật mà đặc biệt là vấn đề về phụ nữ thí dụ như Gun-Britt Sundström trong För Lydia (Cho Lydia) và Inger Alfvén trong Dotter till en dotter (Con gái của một người con gái).

Trong thập niên 1970 thể loại tiểu thuyết mang tính sử thi trở về trong văn học Thụy Điển. Trong các bộ tiểu thuyết nhiều tập, nhiều vùng đất khác nhau đang trong sự biến đổi giữa cũ và mới được miêu tả lại. Sven Delblanc miêu tả vùng nông thôn Södermanland trong Hedebysvit, Häxringarna (Những chiếc nhẫn của phù thủy) của Kersit Ekman bắt đầu cho dòng tiểu thuyết về vùng Södermanland vào cuối thế kỷ 19Sara Lidman đã trở về quê hương của bà qua văn học với bộ tiểu tuyết 5 tập Jernbaeepos (Trường ca tàu hỏa) về việc chinh phục vùng đất Västerbotten trong thế kỷ 19. Göran Tunström miêu tả trong các tiểu thuyết Prästungen (Con của mục sư) và Juloratoriet vùng đất Värmland.

Lars Norén với bi kịch gia đình Model att döda (Can đảm để giết người) năm 1980 đã trở thành nhà viết bi kịch quan trọng nhất của những thập niên kế tiếp.

Stig Larsson đi vào giới công khai trong thập niên 1980 với một văn xuôi hậu hiện đại, như trong tiểu thuyết Autisterna. Trong cùng thời gian này truyền thống kể chuyện thi sử vẫn giữ được vị trí trong văn học mà các đại diện là Torgny Lindgren (Ormens väg på hälleberget và Hummelhonung), Per Olov Enquist (Musikanternas uttåg và Livläkarens besök) và Kerstin Ekman với bộ tiều thuyết 3 tập Vargskinner (Bộ lông sói) của bà.